Nhỏ
Vừa
Lớn
Rất lớn
Be Vietnam Pro
Arial
Times New Roman
Georgia

Đức Phật Và Nàng

Chương 10

Đăng:
Lượt đọc: 0
Đề cử: 0
Bình luận: 0

Cuối

cùng, chúng tôi cũng lên đường đi Khâu Từ. Buổi đưa tiễn diễn ra rất náo nhiệt,

dân chúng Wensu từ mọi ngả đổ ra phố chính, đứng chen chân hai bên đường. Đức

vua Wensu đích thân cưỡi ngựa tiễn đoàn chúng tôi mấy mươi dặm.

Đi cùng

vua chúa quả có khác, chúng tôi được chăm sóc rất chu đáo và vương giả, khác

hẳn với khi tôi đi cùng mẹ con Rajiva. Hàng ngày, Rajiva vẫn đều đặn đến lán

trại của tôi học bài sau giờ tụng kinh buổi chiều. Giờ đây tôi đã có sách trong

tay, nên bài giảng cũng ngày một trọn vẹn và sâu rộng hơn, tôi luôn mở rộng, bổ

sung kiến thức mới cho Rajiva. Tôi thường vận dụng những câu chuyện lịch sử làm

dẫn chứng minh họa cho những đạo lý sâu xa của cổ nhân, Rajiva rất hứng thú và

luôn hết lời khen ngợi.

Vua

Bạch Thuần đã có lần đến kiểm tra việc dạy học của tôi, tiếng Hán của ngài rất

trôi chảy. Khi ấy tôi đang giảng sách Luận ngữ “Chương 9: Tử Hãn”, Nhà vua chọn

ra một câu để thử tài tôi, câu đó là: “Tử viết: Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu

sắc giả dã”.

Câu này

vốn rất dễ lý giải, tôi suy nghĩ một lát, đáp:

- Khổng

Tử than phiền rằng con người coi trọng sắc dục hơn đức hạnh. Thế nhưng người ta

ai nấy đều ham muốn sắc dục, bởi vậy háo sắc là biểu hiện chân thực của bản

tính con người. Giữa con người và sắc đẹp có sự lôi cuốn rất tự nhiên, khó lí

giải nhưng vô cùng mãnh liệt. Cáo Tử từng nói: “Nhu cầu ăn uống và sắc dục

thuộc về bản năng tự nhiên của con người”. Nhưng đức hạnh thì không phải. Người

ta, nếu có coi trọng đức hạnh thì cũng không xuất phát từ nhu cầu tự thân giống

như ham muốn mỹ sắc. Người xưa đã vậy, người nay vẫn thế.

Tôi

ngừng lại, Bạch Thuần không nói gì, nhưng tôi luôn có cảm giác ánh mắt ngài

nhìn tôi không mấy thiện cảm. Cũng tại tôi ruột để ngoài da, chẳng suy nghĩ

thấu đáo, cứ thật thà phát biểu: háo sắc là thiên tính của con người. Vì sao

tôi không kịp nhớ rằng, xưa nay các vị hoàng đế vốn thích hô khẩu hiệu to tát

và ưa thể diện kia chứ?

Do đó,

tôi vội vã bổ sung:

- Nhưng

chữ “sắc” ở đây không hoàn toàn là mỹ sắc, mà chỉ tất cả những thứ đẹp đẽ. Và

“đức” cũng là một trong số những thứ đẹp đẽ đó. Người coi trọng đức hạnh ngang

với coi trọng cái đẹp được gọi là quân tử. Sở dĩ Khổng Tử than phiền như vậy là

vì bao năm lênh đênh, chu du khắp thiên hạ, ghé qua hầu hết các nước chư hầu,

vậy mà ngài vẫn bơ vơ như kẻ không nhà, chỉ vì chưa gặp được vị quân vương nào

xem trọng người tài đức như xem trọng sắc đẹp. Nhưng nếu ngài còn sống đến ngày

nay, gặp được vị vua anh minh hiếu đức như đức vua đây, hẳn ngài sẽ không còn

phải thở dài buông lời cảm thán như vậy!

Biểu

cảm trên gương mặt Bạch Thuần vẫn không hề thay đổi, tôi hoang mang không biết

“nịnh bợ” kiểu đó có chút hiệu quả nào không? “Làm bạn với vua như chơi với

hổ”, người xưa nói quả không sai! Ông ta mới là vua của một tiểu quốc Tây Vực

xa xôi mà đã vậy, nếu là Tần Hoàng Hán Vũ thì còn đáng sợ đến thế nào? Chỉ cần

khiến các ngài không vui là mất đầu như chơi. Chợt như có một luồng hơi lạnh

chạy dọc sống lưng, tôi chỉ dám hé mắt nhìn trộm ngài. Bạch Thuần không thèm

đếm xỉa đến tôi, ngài nói vài câu với Rajiva bằng tiếng Tochari rồi bước ra

ngoài.

Ngày

hôm sau, ngài nói về tôi trước mặt hai mẹ con Rajiva, rằng:

- Cô

giái này còn quá trẻ, thái độ thiếu nghiêm túc, thiếu tư chất của một người

thầy.

Tôi

giận quá định bỏ đi. Ông ta tưởng tôi không hiểu tiếng Tochari chắc, hay ông ta

vốn chẳng thèm quan tâm tới tôi có hiểu hay không? Chắc chắn là tại điệu cười

ngu ngốc đó, như vậy chứng tỏ trò nịnh bợ của tôi ngày hôm qua đã tìm nhầm đối

tượng rồi! Không biết tôi đã nói điều gì khiến ông ta phật ý? Ông ta bảo sau

khi về Khâu Từ sẽ tìm thầy dạy khác cho Rajiva, còn nói ở Khâu Từ có rất nhiều

giáo viên người Hán tài giỏi, kiến thức uyên thâm. Rajiva cảm ơn và từ chối

khéo léo, ca ngợi tôi là giáo viên giỏi nhất mà cậu từng gặp, khen tôi là người

làu thông kim cổ, tỉ mỉ, tận tâm. Quả không làm tôi thất vọng. Bạch Thuần hết

cách đành quay sang thuyết phục Jiva, nhưng ni cô xinh đẹp nói, bà tôn trọng ý

muốn của Rajiva.

Jiva

quả là người mẹ tuyệt vời, chả trách lúc nào Rajiva cũng yêu kính bà! Bạch

Thuần cố nhiên là không vui, tôi biết ý nên vội vã cúi đầu, vờ như không nghe

thấy gì.

Chúng

tôi tiếp tục vượt qua Bái Thành, trước mắt không còn là sa mạc mênh mông hoang

vắng nữa. Những hẻm núi đủ mọi dáng vẻ nối tiếp nhau dằng dặc, không bóng một

lùm cây, dưới ánh mặt trời, khung cảnh hiện ra hùng vĩ hệt như hẻm núi Grand

trên vùng Colorado của nước Mỹ. Chúng tôi bắt đầu tiến vào vùng núi thuộc dãy

Thiên Sơn. Rajiva cho tôi biết, vượt qua những hẻm núi kỳ vĩ này, đi thêm hai

mươi dặm sa mạc nữa là đến biên giới Khâu Từ.

Một

dòng sông nhỏ xuất hiện giữa những khe núi hiểm trở. Có sông có nước là sẽ có

ốc đảo. Hai bên bờ là vách núi cheo leo, nơi đây vốn là huyết mạch quan trọng

của con đường tơ lụa. Thấp thoáng vài hộ nông dân và nhà trọ. Rajiva nói với

tôi, sông này là sông Muzat, còn núi này là núi Karadag. Tôi thấy những tên gọi

này rất quen thuộc. Nơi đây cách Khâu Từ những mấy chục dặm, không biết điều gì

khiến tôi có cảm giác quen thuộc đến vậy? Tôi nhìn lại một lượt khung cảnh núi

non trùng điệp, sông suối lượn quanh, ốc đảo xanh tươi với hai bên là vách núi

dựng đứng này, một địa danh chợt lóe lên trong đầu tôi: Thiên Phật động Kizil.

-

Rajiva, Thiên Phật động Kizil ở đây phải không? Đưa tôi đi xem có được không?

Tôi

sung sướng tột độ. Thiên Phật động Kizil là quần thể hang đá nằm ở cực Tây,

được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc. Giá trị to lớn của di tích này nằm ở các

bức bích họa, vẻ đẹp của nó có thể sánh ngang với các bức bích họa ở Đôn Hoàng.

Về mặt thời gian thì những bức bích họa này còn ra đời trước các bức bích họa ở

Đôn Hoàng hơn hai thế kỷ. Phong cách nghệ thuật đậm màu sắc tín ngưỡng Phật

giáo Đại Thừa, là đặc trưng của nghệ thuật Khâu Từ, là nguồn tư liệu vô cùng

quý giá để nghiên cứu về quốc gia này. Tiếc thay, về sau, những người Ujur theo

tín ngưỡng Hồi giáo đã phá hoại nghiêm trọng công trình này. Thêm vào đó,

khoảng thế kỷ thứ XIX, nhà khoa học về phương Đông người Đức, A. Von Le Coq

cũng đã đến đây và lấy đi không ít hiện vật quý giá. Nếu tôi được tận mắt ngắm

nhìn công trình đồ sộ này khi nó còn nguyên vẹn và phác thảo lại, sẽ có giá trị

biết bao!

- Thiên

Phật động Kizil nào vậy?

Dường

như cậu ta không hiểu. Có lẽ vì Kizil là tiếng Duy Ngôn Nhĩ (Uygur) và vào thời

gian này, thì vẫn chưa xuất hiện tên gọi Thiên Phật động Kizil.

- Đó là

ngôi chùa kiểu kiến trúc hang đá được xây dựng trên vách núi, bên trong có rất

nhiều tranh bích họa và những hang đá kéo dài hàng ngàn dặm, chạy suốt dọc vách

núi Karadag.

Hai mắt

sáng lên, tôi xúc động mô tả cho cậu ta nghe, nhưng Kumarajiva dường như vẫn

không hiểu gì cả. Cậu ta đưa mắt quan sát một lượt khung cảnh trước mặt rồi

dừng lại ở dãy núi đối diện:

- Ngải

Tình, ở đây không có hang đá nào như cô vừa nói.

Lẽ nào

tại thời điểm này, Thiên Phật động Kizil vẫn chưa được xây dựng? Tài liệu lịch

sử ghi lại rằng công trình này được khởi công vào khoảng thế kỷ thứ III, thứ IV

sau Công nguyên, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, công việc xây dựng chậm lại và

ngừng hẳn. Cho nên, thời điểm khởi công là thời gian này mới phải chứ?

- Ngải

Tình.

Rajiva

đột nhiên ngước đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi.

- Vì

sao cô biết một ngôi chùa như thế sẽ được xây dựng ở đây?

Tôi sợ

toát mồ hôi. Đúng rồi, sao tôi lại biết được? Thiên Phật động này được xây dựng

sớm nhất ở Trung Quốc và bây giờ nó còn chưa ra đời kia mà!

-

Tôi...

Tôi

cười ha ha kéo dài thời gian, rồi chỉ tay về phía con đường uốn lượn ngoằn

ngoèo giữa những khe núi hẹp và nói:

- Tôi

nghĩ rằng đây là nơi mà các lái buôn nhất định phải đi qua. Những nhà buôn đi

trên con đường tơ lụa gặp rất nhiều rủi ro, nguy hiểm, nào là thời tiết khắc

nghiệt, địa hình hiểm trở, đạo tặc hoành hành. Nguy cơ trắng tay, thậm chí mất

mạng là rất lớn. Bởi vậy họ cần Phật pháp như một nơi nương tựa về tinh thần,

ban cho họ sự bình an. Nếu xây chùa ở đây, những thương nhân đó chắc chắn sẽ

ghé qua cầu xin thần Phật phù hộ. Vả lại, nơi này thanh vắng yên tĩnh, rất phù

hợp để tu hành.

Niềm

vui ngời ngời hiện lên trên khuôn mặt Rajiva, ánh mắt cậu ta mỗi lúc một long

lanh rạng rỡ, tôi thở phào nhẹ nhõm. Quý Tiễn Lâm từng nói rằng, nhà buôn và

Phật giáo có mối quan hệ hết sức mật thiết. Các khoản quyên tặng và lễ vật cúng

bái của nhà chùa chủ yếu dựa vào các thương nhân. Đây chính là lý do vì sao các

ngôi chùa và thiền viện Phật giáo hầu hết được xây dựng dọc theo con đường tơ

lụa. Và Phật giáo cũng nhờ con đường này, từng bước được truyền bá vào Trung

Nguyên. Nên lí do mà tôi đưa ra hoàn toàn hợp lý.

Tôi

quan sát những vách núi cao vút bốn xung quanh, lắc đầu ảo não:

- Còn

vì sao phải khai mở động đá. Là vì nơi đây là hẻm núi, cây cối không nhiều, nếu

muốn xây chùa bằng gỗ thì phải vận chuyển từ nơi khác đến, sẽ rất tốn kém, hơn

nữa, công trình sử dụng chất liệu gỗ rất khó bảo tồn, vì vậy, xây chùa hang đá

trên vách núi là hợp lý nhất.

Rajiva

gật đầu tán đồng:

- Chùa

hang đá mà cô miêu tả rất giống với kiến trúc chùa chiền ở Ấn Độ và Kabul. Ở

những nơi đó, họ xây chùa trên vách núi vì những con đường huyết mạch đều là

đường qua núi.

Trầm tư

một lát, cậu ta quay lại, hỏi tôi:

- Nhưng

sao cô lại gọi ngôi chùa này là Kizil?

Tôi há

hốc miệng, cậu ta vẫn chưa hết nghi vấn à? Tên ranh này sao mà thông minh thế

không biết!

-

Kizil, Kizil...

Tôi lẩm

bẩm đọc đi đọc lại cái tên này, vừa đọc vừa suy nghĩ.

- Đây

là từ địa phương, ở nơi tôi sinh sống, Kizil có nghĩa là hang đá.

May

quá, tôi nhanh trí viện ra cái cớ này để lòe cậu ta vì dù gì cậu ta cũng là

người nước ngoài.

Cậu ta

nhìn tôi rất lâu, đúng vào lúc tôi bắt đầu lung lay vì lời nới dối của mình,

thì đột nhiên cậu ta tươi cười gật đầu:

- Ngải

Tình nói rất có lý!

Cậu ta

ngừng lại, suy nghĩ một lát rồi hỏi tiếp:

- Vậy

theo cô, ngôi chùa hang đá này nên thiết kế ra sao để thể hiện được sự uy nghi

của Phật pháp?

- Cái

đó...

Đâm lao

phải theo lao thôi, nếu tôi không nói, chỉ e ngày sau, Thiên Phật động này sẽ

biến dạng. Tôi ngập ngừng hồi lâu, nhưng sau đó vẫn quyết định trình bày hết

suy nghĩ của mình:

- Trước

tiên cần khai mở một động đá trong núi, ở giữa dựng các cột trụ, đặt tượng Phật

vào các hốc tường phía trước cột trụ, đường hành lang bên trái và gian buồng

phía sau sẽ vẽ các bức bích họa kể câu chuyện của Phật tổ và các truyền nhân

của ngài. Như vậy, tăng ni Phật tử có thể bái Phật ở gian chính, sau đó vòng

qua hành lang bên phải đi về phía buồng sau để ngắm nhìn các tượng Phật ở tư

thế nằm trên cõi Niết Bàn, cuối cùng, quay lại gian thờ chính, ngẩng đầu lên

chiêm ngưỡng những bức tranh thuyết pháp của Di Lặc, Bồ Tát ở phía trên cửa ra

vào hang đá. Các bức bích họa sẽ được vẽ trong khung hình thoi, với ý nghĩa là

núi Tu Di (Sumeru), hình vẽ bên trong kể về câu chuyện của Phật tổ và luật nhân

quả.

Nhìn vẻ

mặt chất đầy nghi vấn của Rajiva, tôi hết sức lo lắng, tôi tiếp tục lục lọi

trong trí nhớ để tìm kiếm những tài liệu về Thiên Phật động Kizil:

- À,

còn nữa, phải xây các phòng nhỏ làm nơi tọa thiền cho các tăng sĩ, những phòng

đá nhỏ này thì không cần trang trí bích họa, có thể thiết kế theo kiến trúc

phòng ở gắn liền với lối đi. Phòng đá nhỏ dành cho tăng sĩ và hang đá chứa bích

họa có thể đặt cạnh nhau, tạo nên một quần thể thống nhất, đó chính là một ngôi

chùa Phật giáo.

- Ngải

Tình, cô từng đến Ấn Độ và Kabul, đúng không?

- Hả?

Đúng là

tôi đã từng đến Ấn Độ, nhưng tình hình chính trị ở Kabul, tức vùng Peshawa

thuộc Kashmir ngày nay hết sức phức tạp, nên tôi chưa có cơ hội đến đó. Kabul

là thành phố cổ đại nổi tiếng nằm trên con đường giao nhau giữa vùng Nam và

Trung Á, là thủ đô của vương triều Kushan do đức vua Kanishka lập nên, là khởi

nguồn của nghệ thuật Phật giáo Gandhara và là vùng thánh địa mà tôi mơ ước được

đến thăm từ lâu.

Nhưng

vấn đề nan giải hiện nay là tôi phải tiếp tục nói dối như thế nào đây? Rõ ràng,

mô hình kiến trúc tôi vừa miêu tả không hề có tại Trung Nguyên và thậm chí ngay

ở Tây Vực cũng chưa từng có. Nhưng nếu tôi nói rằng tôi từng đến đó, chắc chắn

tôi sẽ bị lật tẩy. Cha cậu ta là người Ấn Độ, bản thân cậu ta đã từng sống ở

Kabul mấy năm trời.

-

Tôi... Là vì... Tôi tình cờ gặp một nhà sư người Ấn Độ, ông ấy đã nói với

tôi...

- Ngải

Tình hiểu tiếng Phạn từ khi nào vậy

Cậu ta

ngắt lời tôi, ánh mắt sắc như dao đang nhìn xoáy vào tôi khiến tôi không biết

lẩn trốn vào đâu.

-

Tôi...

Người

ta nói quả không sai: nói dối một lần thì dễ nhưng để duy trì lời nói dối ấy,

bạn phải nghĩ ra thêm nhiều lời nói dối khác và đến sau cùng bạn vẫn cứ bị lật

tẩy.

- Ngải

Tình, cô chẳng biết nói dối gì cả!

-

Tôi...

Thế là

tôi đã bị lộ. Sao khi nãy tôi liều lĩnh như vậy, thốt ra những lời bịa đặt

không chút suy nghĩ.

- Rốt

cuộc cô là ai?

Lại một

câu hỏi gai góc nữa, đầu óc tôi chao đảo.

-

Tôi...

Tôi đã

quên mất rằng tên ranh này từng đánh bại nhà biện kinh vô địch Tây Vực. Nếu cậu

ta tiếp tục chất vấn, bí mật của tôi chắc chắn không thể giữ được nữa!

- Thôi

được rồi, cô đừng lo lắng.

Nhìn

gương mặt đỏ bừng của tôi, cậu ta bỗng bật cười:

- Nếu

cô không muốn nói, tôi không ép buộc. Tôi sẽ thuyết phục đức vua xây dựng chùa

hang đá này khi về đến Khâu Từ, sẽ đặt tên là Thiên Phật động Kizil. Và tất

nhiên sẽ xây dựng theo thiết kế cô vừa nói.

Cậu ta

nhìn tôi, đôi mắt tinh anh tỏa sáng, lắc đầu và cười:

- Ngải

Tình, cô có biết điệu bộ ngơ ngác của cô khi nãy rất dễ thương không? Bất kể cô

từ đâu đến, cô là cô gái thông minh xinh đẹp nhất mà Rajiva từng gặp.

Hai má

tôi đã bớt nóng, nhưng miệng tôi vẫn chưa khép lại. Thật không thể tin được,

Thiên Phật động Kizil đã được xây dựng như thế đấy! Tôi đập khẽ vào miệng mình

tự trừng phạt và dặn lòng từ nay sẽ cấm nói năng lung tung. Tôi làm sao mà gánh

nổi tội danh làm rối loạn lịch sử kia chứ!

Quay

đầu lại và phát hiện hành động tự phạt vừa rồi đã lọt vào mắt Rajiva, đen đủi

thế không biết! Cậu ta không nói gì, nhưng ánh mắt nhìn tôi như đang nghiên cứu

lại như đang dò la. Kể từ lúc ấy, tôi luôn nhắc nhở mình không được nhiều lời.

Cuối

cùng, chúng tôi đã đến được Khâu Từ. Đội ngũ nghênh tiếp lần này còn long trọng

hơn cả khi ở Wensu, từ xa đã văng vẳng tiếng nhạc mừng réo rắt. Những lán trại

chạy dài hàng mấy trăm mét trước cổng thành. Phía trước mỗi lán trại đều có các

tăng sĩ với trang phục của các cao tăng hướng về phía chúng tôi hành lễ. Rajiva

và Jiva lập tức xuống ngựa, cung kính chắp tay tạ lễ với các cao tăng đó. Tôi

chỉ để tâm đến những pho tượng Phật dựng bên trong các lán trại, giá như có thể

bảo tồn đến thời hiện đại thì tốt biết bao!

Dẫn đầu

đoàn nghênh tiếp là một phụ nữ trung tuổi, thân hình béo tốt, khoác trên mình

bộ trang phục quyền quý với váy dài thêu kim tuyến tay lỡ, chắc chắn là hoàng

hậu! Đám phụ nữ và trẻ nhỏ ăn mặc cầu kỳ quý phái phía sau hẳn là các phi tần,

hoàng tử và công chúa. Tiếp đó là đến các quan văn quan võ, hàng trăm con người

cung kính hành lễ với đức vua Bạch Thuần, không khí hết sức trang nghiêm. Chỉ

trong phút chốc tôi đã được diện kiến toàn bộ giới quý tộc và hoàng thất Khâu

Từ, tôi ước sao có cái máy ảnh ở đây để ghi lại khung cảnh cảm động này.

Hoàng

hậu ôm chầm lấy Jiva và Rajiva, xúc động bật khóc nức nở. Mẹ con Jiva mắt đỏ

hoe, họ đang cùng nhau ôn lại bốn năm xa cách. Tôi để ý đến một người trong đám

quý tộc phía sau hoàng hậu, người ấy có ngoại hình khác hẳn những người Khâu Từ

khác.

Đó là

một người đàn ông trung niên, với nước da bánh mật, dáng người rất cao, thân

hình mảnh khảnh, lưng dài thẳng tắp, vầng trán hẹp và dài, đôi mắt to sâu trũng

in giữa khuôn mặt khắc khổ, đồng tử màu nâu nhạt, thần thái toát lên vẻ thông

thái và nhân hậu. Ông không thả tóc ngang vai như người Khâu Từ, mái tóc ông

cắt ngắn giống kiểu tóc của con người ở hiện đại nhưng đã lốm đốm sợi bạc. Dù

ông đang mặc trên mình trang phục của người Khâu Từ, tôi vẫn dễ dàng nhận ra

ông là người Ấn Độ. Ở tuổi này, nếu dùng từ “đẹp trai” để miêu tả về ông thì

thiệt thòi cho ông quá! Điều đáng nói ở đây là khí chất thoát tục ở ông, đó là

thứ khí chất thanh cao khiến ông trở nên khác biệt giữa hàng trăm con người,

khiến người khác phải chú ý và khi đã chú ý đến ông rồi thì khó mà dứt được ánh

nhìn để chuyển hướng đi chỗ khác.

Ông dắt

theo một cậu bé chừng mười tuổi, khuôn mặt tròn xoe, làn da trắng ngần giống

người Khâu Từ và những đường nét trên khuôn mặt thì giống hệt Rajiva, nhưng dễ

thương hơn nhiều! Đôi mắt màu xám nhạt ấy đang bận ngó nghiêng khắp nơi, khi

thấy tôi, cậu bé có vẻ hơi ngạc nhiên, cứ chăm chú nhìn tôi mãi. Tôi cười với

cậu bé, lén lút làm mặt ngáo ộp trêu chọc. Cậu bé giật mình, vội vã quay mặt

đi.

Không

nghi ngờ gì nữa, người đàn ông Ấn Độ ấy chính là Kumarayana, người đã từng từ

bỏ ngôi vị để xuất gia, người từng vượt qua dãy núi Pamirs ở phía đông để đến

đất Khâu Từ và được đức vua nước này phong làm quốc sư, là cha của Kumarajiva

và là người mà năm xưa Jiva tìm mọi cách để được lấy làm chồng. Cậu bé có khuôn

mặt giống Kumarajiva như đúc kia chính là em trai của cậu, tôi không nhớ tên

cậu bé là gì. Trong “Truyện cao tăng”, Tuệ Giảo chỉ ghi lại một cái tên, tức là

trong sự phát triển của lịch sử, cậu bé đó chỉ tồn tại vì là em trai của

Kumarajiva.

Hoàng

hậu đã ngừng khóc, đưa hai mẹ con Rajiva đến bên Kumarayana, Jiva chắp tay hành

lễ trước người từng là chồng của bà, nỗi nhớ nhung bịn rịn ngập đầy trong đôi

mắt thẳm sâu của Kumarayana. Chắc hẳn ông rất muốn ôm bà vào lòng, nhưng ông

chỉ lặng nhìn bà vài giây, rồi cũng chắp tay tạ lễ. Chú bé tinh nghịch không

cần biết trời cao đất dày gì, cứ thế lao vào ôm chầm lấy mẹ kêu khóc thảm

thiết, Jiva cũng ôm chặt lấy đứa bé, nước mắt chan chứa. Rajiva quỳ lạy cha,

nhưng Kumarayana vội vàng đỡ cậu lên. Cha con họ đều rất xúc động, họ trò

chuyện với nhau bằng tiếng Phạn.

Nghi lễ

đón tiếp đã diễn ra hơn một tiếng đồng hồ. Kumarayana xin phép đức vua được đưa

vợ con về phủ, Jiva không phản đối, có lẽ vì bà cũng rất nhớ con. Thế là tôi

cùng gia đình họ trở về phủ quốc sư.

Tôi đã

tìm hiểu và được biết em trai Rajiva tên là Pusyseda, đó là tên tiếng Phạn, vậy

là lại có thêm một cái tên khó đọc nữa.

Chương 1: Diễn biến mới

Cài đặt đọc truyện

Nhỏ
Vừa
Lớn
Rất lớn
Be Vietnam Pro
Arial
Times New Roman
Georgia
Sáng
Sepia
Tối

Ủng hộ tác giả

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

10.000đ
100 xu
20.000đ
200 xu
50.000đ
500 xu
100.000đ
1.000 xu
200.000đ
2.000 xu
500.000đ
5.000 xu

Hoặc nhập số tiền tùy chọn:

Báo lỗi truyện

Vui lòng chọn loại lỗi:

Chia sẻ truyện

Facebook
Twitter
Telegram
Email

Công cụ đọc truyện

Cài đặt
Yêu thích
Chia sẻ
Ủng hộ
Báo lỗi
Toàn màn hình
Chương 10
AI đọc truyện
0:00
0:00
0.5x
0.75x
1x
1.25x
1.5x
2x
Đang Tải...