Tôi lái xe trên đường cao tốc Bàn Sơn, trời trong gió mát, thoải mái
dễ chịu làm sao. Đỗ xe giữa một rừng tre trúc um tùm, thanh vắng, sau đó xuống xe, cuốc bộ, tôi chầm chậm cất bước, men theo con đường nhỏ rợp
bóng cây. Hương thơm thanh thanh của mùi bùn đất lẫn trong gió mát ru vỗ tôi, tôi nhắm mắt hít hà thỏa sức, cảm giác như không khí bụi bặm trong phổi mình được thanh lọc triệt để. Mỗi lần đến nơi đây, tôi đều có cảm
giác thanh thản, nhẹ nhõm, bình yên vô cùng, tôi sẽ tắt điện thoại di
động, không để bất cứ ai làm phiền mình. Hôm nay là ngày gia đình tôi
đoàn tụ.
Dòng suối trong veo, chảy róc rách qua các bậc đá trên lối đi, chốc
chốc lại có chú chim cất cao tiếng hót thánh thót rồi vút bay lên không
trung. Có một căn nhà nhỏ ở cuối lối đi. Đằng sau bức tường trát bùn dân dã là một vườn rau củ quả tươi xanh mơn mởn, dưới giàn nho xanh tốt là
một chiếc bàn tròn và những chiếc ghế mây. Căn nhà đơn sơ, thanh tịnh,
nằm bên cạnh chùa Thảo Đường với lối kiến trúc giả cổ là căn nhà của cha mẹ và tôi.
Tôi cắm chìa khóa vào ổ, mở cửa, gọi lớn:
- Cha ơi mẹ ơi, con về rồi!
Ngoài những vật dụng thiết yếu là đồ điện tử hiện đại, còn lại hầu
hết đồ đạc trong nhà đều là những vật dụng xưa cũ. Nhà bếp, phòng khách, phòng ngủ đều đã được lau dọn sạch sẽ. Chiếc hộp gỗ mà cha nâng niu như bảo bối luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất trên bàn đọc sách của
cha. Chiếc hộp đã cũ mèm, bạc màu, nhưng không vương một hạt bụi.
Ra ngoài cũng không tìm thấy, tôi định rút điện thoại gọi cho mẹ,
nhưng lại đút vào trong túi. Họ còn có thể đi đâu được nữa? Chắc chắn đã đến ngôi chùa ở ngọn núi phía trước để tụng kinh rồi. Sư sãi trong chùa đều tin rằng cha mẹ tôi là cư sĩ. Họ vô cùng khâm phục cha về sự thông
tuệ Phật pháp và thường mời cha đến chùa giảng kinh. Có lẽ hôm nay cha
được mời đến đó.
Tôi bước vào đại điện của ngôi chùa nghìn năm tuổi ấy, cả một biển
người đang xếp bằng tụng kinh niệm Phật. Họ đang tụng niệm “Kinh kim
cương”, cuốn kinh mà tôi thuộc nhất. Lặng nghe âm thanh tụng
niệm trầm bổng tựa như một bản đồng ca ấy, sống mũi tôi bỗng nhiên cay
xè vì xúc động. Cuốn kinh này trải qua 1650 thời gian, vẫn tràn đầy sức
sống và được lưu truyền rộng khắp.
- “Tu Bồ Đề, nếu có người đem bảy thứ châu báu với số lượng lớn đến
nỗi, chứa đầy các thế giới, nhiều tới vô lượng a tăng kỳ đề bố thí, thì
phước đức cũng không bằng phước đức của một người con trai
hay một người con gái nhà lành, khi người này phát tâm bồ đề, đọc tụng
thọ trì kinh này và đem thuyết giảng cho người khác nghe, dù chỉ là một
bài kệ bốn câu trong ấy. Thuyết giảng theo tinh thần nào? Thuyết giảng
mà không kẹt vào “tướng”, như như và không động. Vì sao thế?”
“Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bào ảnh Như sương, như chớp lòe
Hãy quán chiếu như thế”.
“Sau khi nghe Phật dạy kinh này, thượng tọa Tu Bồ Đề và các vị khất
sĩ, nữ khất sĩ, Ưu bà tắc, Ưu bà di và tất cả các giới Trời, Người và A
tu la đều rất hoan hỷ, tin tưởng và tiếp nhận để thực hành”.[1]
[1] Bản dịch “Kinh kim cương” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Kết thúc buổi tụng niệm, tất cả các sư tăng và cư sĩ cùng làm lễ vái
lạy Đức Phật. Trong số họ có hai ông bà lão đứng lên. Bà lão tóc bạc
trắng, quàng chiếc khăn lụa màu sắc còn tươi nguyên. Ông lão cao lớn,
gầy gò, dáng điệu lom khom, nhưng phong thái an nhiên, bất phàm, tựa như một tiên ông. Ông lão đưa tay khoác lên chiếc ba lô mang theo bên mình, để lộ chuỗi hạt mã não rực đỏ trên cổ tay.
Ông lão và bà lão nhìn nhau, mỉm cười, dắt tay nhau ra khỏi đại điện. Tôi tươi cười bước tới, đón chiếc ba lô từ vai cha, mỗi tay nắm một vị, thong thả đi về.