Nhỏ
Vừa
Lớn
Rất lớn
Be Vietnam Pro
Arial
Times New Roman
Georgia

Đức Phật Và Nàng

Chương 62

Đăng:
Lượt đọc: 0
Đề cử: 0
Bình luận: 0

Đến Yanqi, Lữ Quang

được quốc vương nước này đón tiếp rất long trọng. Khi đội quân Tây chinh của Lữ

Quang tiến qua Yanqi, Quốc vương Niliu đã dẫn theo các tiểu quốc lân cận

tới xin hàng. Lần này, Lữ Quang quay lại đây, Vua Yanqi đã tiếp đón hết sức chu

đáo, nên Lữ Quang đã dừng lại ở Yanqi khoảng năm ngày, và nhận được rất nhiều

lễ vật từ Vua nước này. Phong tục tập quán của người Yanqi rất giống với người

Khâu Từ, nên trong năm ngày ở đây, chúng tôi như được trở về quê cũ. Cảm giác

thân thuộc này khiến Rajiva vui mừng khôn xiết.

Ra khỏi Yanqi, đoàn

chúng tôi tiếp tục men theo hồ Bosten đi tiếp vài ngày nữa. Đây là hồ nước ngọt

nằm sâu trong lục địa lớn nhất của Trung Quốc. Mặt hồ cuộn sóng mênh mông, nước

xanh như ngọc, lau sậy và cỏ nến mọc um tùm ven hồ. Từng đàn cò, vịt trời là là

bay trên mặt nước, tấp nập, rộn ràng. Thấp thoáng một vài chiếc tuyền đánh cá

của ngư dân Yanqi trên mặt hồ. Hàng ngày, sau khi dựng trại xong, rất nhiều

binh sĩ xuống hồ bắt cá, cải thiện bữa tối của chúng tôi. Tháng năm, đoàn chúng

tôi tiến vào một trong những bồn địa thấp nhất thế giới – bồn địa Turpan.

Turpan là tiếng Uygur và nó chưa xuất hiện ở thời đại này. Vào thời Ngụy Tấn

Nam Bắc triều, bồn địa này thuộc địa phận của tiểu quốc Cheshi. Khí hậu khô

hạn, oi bức, chưa bước vào mùa hạ nhưng Hỏa Châu – Turpan đã nóng lòng thị uy

với chúng tôi. Nhiều ngày trôi qua, cảnh tượng duy nhất hiện ra trước mắt chúng

tôi là một vùng khô cằn sỏi đá, vắng bóng sự sống trải rộng mênh mông. Chốc

chốc lại nổi lên một trận cuồng phong khiến cả đoàn người, ngựa, lạc đà liêu

xiêu, lảo đảo. Mặt đất phủ đầy những hạt muối li ti, lớp vỏ ngoài của chúng như

thể có khả năng hấp thụ ánh sáng, nhấp nháy, lấp lánh liên hồi. Phía chân trời

thấp thoáng hình của hồ nước, rừng cây, hết sức kỳ quái, đó chính là nguyên

nhân tạo ra ảo ảnh trên sa mạc.

Chúng tôi tiến vào

hoàng thành Cheshi. Thành phố này được xây dựng trên một gò đất cao khoảng ba

mươi mét, là nơi giao nhau của các dòng sông tương đối dốc và chỉ có một con

đường nhỏ hẹp duy nhất dẫn đến cổng thành, địa hình rất độc đáo, thú vị. Ở thời

hiện đại, tôi từng tới đây, nhưng chỉ được chứng kiến khung cảnh

thành quách hoang phế. Nơi đây chính là thành cổ Giao Hà nổi tiếng vào thế kỷ

XXI, người ta đánh giá đây là thành cổ được xây dựng hoàn toàn bằng đất lớn

nhất, lâu đời nhất và được bảo tồn tốt nhất.

Sách “Hán thư”, phần

Tây vực truyện chép như sau: “Nước Cheshi có hoàng thành Giao Hà. Tên gọi này

bắt nguồn từ việc hoàng thành được xây dựng trên điểm giao nhau của các con

sông”. Quốc gia Cheshi thống trị khu vực này đã được hơn năm trăm năm. Nhưng

chưa đầy tám mươi năm nữa, khi vị vua Cheshi cuối cùng băng hà, tộc người

Rouran lập Khanbozhou làm vua, Cheshi đổi tên nước thành Gaoxhang (Cao Xương), dời đô đến thành cổ Cao Xương, cách Giao Hà vài chục ki lô mét. Huyền

Trang, trên đường đi Tây Thiên đã ngang qua nơi đây và kết nghĩa anh em với vua

Cao Xương là Juwentai (Cúc Văn Thái), tên hiệu Ngự đệ của Huyền

Trang trong “Tây Du Ký” bắt nguồn từ câu chuyện kết nghĩa này.

Cheshi là một trong số

các tiểu quốc đã từng cử người đến Trường an thỉnh cầu Phù Kiên Tây chinh và

cũng chính tiểu quốc này đã tình nguyệt làm “hoa tiêu” cho quên đội của Lữ

Quang. Bởi vậy, họ đã tiếp đón Lữ Quang hết sức long trọng. Trong ánh hoàng hôn

cuối ngày, chúng tôi tiến vào cổng thành Cao Xương giữa tiếng nhạc rộn vang và

hoa tươi rực rỡ, nghi thức trọng thể ấy khiến tôi không khỏi bất ngờ. Bởi vì,

thành quách hoang phế tiêu điều mà cách đây không lâu tôi được chứng kiến bỗng

chốc biến thành một thành phố phồn hoa đô hội, sống động trước mắt tôi. Làm sao

tôi có thể không xúc động trước nỗi thương hải tang điền diễn ra chỉ trong chớp

mắt.

Thành phố này vẫn tiếp

tục phát triển cho đến cuối thế kỹ XIII, khi Haidu, một quý tộc Mông Cổ làm

phản và tiến hành cuộc chiến tranh tàn khốc, kéo dài nhiều năm, sau cùng đã

chiếm được Cao Xương, Giao Hà, đồng thời cưỡng bức người dân khu vực này từ bỏ

tín ngưỡng theo đạo Phật truyền thống, chuyển sang theo đạo Hồi. Khi cuộc chiến

tranh kết thúc, người Cheshi đã dìm chết toàn bộ phụ nữ và trẻ em trong những

giếng nước, để tránh cho họ khỏi bị làm nhục và bị nô dịch. Những giếng

nước này vẫn tồn tại cho tới tận thế kỷ XXI. Và giờ đây, khi bước đi trên đường

phố Giao Hà, tôi lại nhìn thấy chúng một lần nữa. Sau khi công phá thành, người

Mông Cổ đã thực hiện chính sách đốt, cướp, giết tàn bạo mà họ vẫn thường sử

dụng, thành phố hơn một nghìn năm trăm năm lịch sử đã bị họ hủy hoại hoàn toàn.

Nơi tôi đang đứng là ngôi chùa Đại Phật Tự nằm ở trung tâm thành phố, bên cạnh

là hoàng cung đã được xây dựng hoàn toàn bằng đất, và những dãy nhà nghỉ dành

cho quan lại. Đến thế kỷ XXI, tàn tích của vụ hỏa hoạn thảm khốc vẫn còn lưu

lại dấu vết.

Giao Hà là thành phố

lớn cuối cùng trước khi chúng tôi đến Đôn Hoàng (Dunhuang), vì vậy Lữ Quang đã

hạ lệnh nghỉ ngơi dăm bữa nửa tháng. Nhờ thân phận cao quý của Rajiva,

chúng tôi không phải sống trong nhà trọ, mà được đích thân vua Cheshi sắp xếp

chỗ ở trong cung. Tối hôm đó, Nhà vua còn tổ chức một buổi dạ tiệc lớn trong

đại điện, Rajiva và tôi đều được mời tới dự. Trong buổi tiệc, Vua Cheshi ngỏ lời mời Rajiva đến chùa Đại Phật Tự thuyết giảng giáo lý Đại Thừa Bát

Nhã, Lữ Quang dù không muốn, nhưng vẫn phải đồng ý. Câu trả lời của Rajiva là

chàng cần chuẩn bị một ngày, hôm sau sẽ bắt đầu thuyết pháp.

Tôi tròn xoe mắt nhìn

chàng, thuyết pháp là công việc hàng ngày của chàng kia mà, có khi nào chàng

phải chuẩn bị đâu! Chỉ cần nói với chàng, cần tìm kinh văn gì, cần giải thích

giáo lý Phật pháp nào, là chàng thậm chí không cần suy nghĩ, vẫn có thể trả lời

trôi chảy, mạch lạc và hấp dẫn. Bộ não chàng, giống như một tàng kinh các toàn

diện. Tôi cảm thấy hồ nghi khi bắt gặp nụ cười đầy ẩn ý của chàng âm thầm hướng

về phía mình. Kết thúc yến tiệc, trở về phòng, tôi nóng lòng muốn chàng giải

đáp thắc mắc, nhưng chàng chỉ tủm tỉm cười, điệu bộ bí mật.

Sáng hôm sau, tôi tỉnh

lại đã không thấy chàng đâu. Chàng thường dậy sớm hơn tôi, có lẽ đang tụng kinh

ngoài kia, tôi không lấy làm lạ. Và còn bởi vì, hôm nay tôi có việc quan trọng

phải làm, công việc tôi đã chờ đợi rất lâu từ trước khi đến thành Giao Hà này.

Đối với tôi, được khảo sát thực địa thành cổ Giao Hà vào thời kỳ rực rỡ nhất

của thành phố này là công việc cực kỳ ý nghĩa. Mặc dù tôi không định quay về

thời hiện đại, nhưng niềm đam mê khảo cổ và lịch sử đã ăn vào máu, tôi muốn bỏ

cũng không được. Bởi vậy, sau khi rửa mặt đánh răng xong, tôi hớn hở chuẩn bị

ra phố. Nhưng vừa bước qua cửa cung, tôi bỗng sững người lại.

Một người đàn ông cao

gầy đang xoay lưng về phía tôi, người đó mặc một chiếc áo màu ngà, mái tóc xoăn

màu nâu thả ngang vai, từ người đàn ông đó toát ra khí chất thoát tục của bậc

tiên nhân. Nhận ra động tĩnh phía sau, người đó quay lại, đôi mắt long lanh tựa

dòng sông mùa xuân.

Người đó ngắm nghía là

trang phục của bản thân, đưa khuỷu tay về phía tôi, tươi cười rạng rỡ:

- Hôm nay ta không

phải bậc cao tăng Kumarajiva, mà là một người chồng bình thường, đưa vợ

đi dạo phố.

Tôi đang ngẩn ngơ, đắm

đuối ngắm nhìn bậc tiên nhân trác tuyệt bằng đôi mắt mang hình trái tim, nghe

chàng nói vậy, đâm ra bực bội: - Em đi làm việc chứ không phải đi chơi đâu nhé!

Chàng phì cười, lắc

đầu:

- Được rồi, vậy người

chồng này xin được theo vợ đi làm việc, vợ cứ tùy ý sai khiến.

Chả trách tối hôm qua

chàng tỏ ra bí mật như vậy, thì ra đã có tính toán từ trước! Chàng đã để tâm

đến cả sở thích, đam mê của tôi! Cứ nghĩ đến điều này, tôi lại vui sướng bật

cười khúc khích. Lồng tay vào cánh tay chàng, cùng chàng bước đi. Đột nhiên nhớ

tới một chuyện cũ, tôi hỏi:

- Nói thật cho em

biết, ngày cuối cùng của lễ hội Sumuzhe năm đó, chàng đã đến tìm em phải không?

Chàng bỗng dừng chân,

khuôn mặt ửng đỏ, giọng nói ấp úng lạ lùng:

- Nàng… sao nàng biết

được?

- Bởi vì hơn mười năm

rồi mà phong cách hóa trang của chàng vẫn không hề thay đổi!

Tôi bật cười sảng

khoái, nhớ về chuyện xưa, không khỏi xúc động, bồi hồi. Tôi ngừng lại, quay

sang nhìn chàng:

- Lần trước không kịp

nói với chàng, nhưng lần này em nhất định phải nói.

Chàng hướng ánh mắt

băn khoăn về phía tôi, bộ dạng sợ hãi ấy khiến tôi không nhịn nổi, ôm bụng cười

khoái trí:

- Em muốn nói rằng,

chàng ăn mặc như vậy trông rất đẹp trai!

Thu lại tiếng cười,

đón lấy ánh mắt ấm áp của chàng, trái tim tôi cất lời:

- Rajiva, chàng

là người đàn ổng điển trai và nam tính nhất mà em từng gặp.

Chàng bất ngờ, nụ cười

bẽn lẽn nở trên môi, nụ cười dung dị ấy khiến cả con người chàng tỏa sáng:

- Ta chưa bao giờ để

tâm đến vẻ ngoài của mình. Vả lại, ta đã ba mươi sáu tuổi rồi, còn điển trai gì

nữa!

Tôi lắc đầu:

- Trước tuổi ba

mươi, tướng mạo của con người là do cha mẹ ban tặng. Nhưng sau ba mươi, là do

tự người đó tạo nên. Thành ngữ có câu: Tướng do tâm sinh. Khí chất, phong độ và

sự từng trải của con người đều là kết quả của sự trải nghiệm tự thân. Diện mạo

của một người có thể phản ánh tâm hồn phóng khoáng, rộng mở của người đó. Một

số nam giới quá ư ỷ lại vào vẻ ngoài trời phú, càng ngày họ càng trở nên tẻ

nhạt. Bụng bia tròn trùng trục nhưng không chịu ăn kiêng, chỉ biết kêu trời oán

đất thiếu công bằng. Những người đàn ông đó, dù có đẹp trai đến mấy, chỉ vài

năm sau bộ mặt đáng ghét của họ sẽ lộ tẩy. Nhưng có những người đàn ông giống

như hơi men, càng ủ lâu càng thơm. Năm tháng phủ lên họ lớp hương thời gian

nồng đượm, những nếp nhăn trên trán toát lên khí chất và sức hấp dẫn, vì nó đại

diện cho sự lĩnh hội và trí tuệ trau dồi từ đời sống.

Lẳng lặng ngắm nhìn

khuôn mặt từng trải quyến rũ của chàng, tôi nhận xét:

- Rajiva, chàng giống

như một vò rượu quý, dù chàng 50 tuổi, 60 tuổi hoặc già hơn nữa, em vẫn luôn

yêu dung mạo của chàng như thuở ban đầu.

Tôi cúi xuống, quan

sát bản thân, hít một hơi thật sâu, tự động viên:

- Còn em, em cũng sẽ

cố gắng rèn luyện bản thân, tu tâm dưỡng tính, để ngày càng trở nên hấp dẫn, có

như vậy mới xứng đáng đi bên cạnh chàng.

- Nàng lúc nào cũng biết

cách làm ta vui lòng.

Đôi mắt chàng long

lanh tươi sáng niềm hân hoan rạng rỡ, chàng cốc nhẹ vào trán tôi:

- Đói bụng chưa? Ta nghe nói mì vằn thắn của Giao Hà rất ngon…

- Vậy ư? Chúng ta đi

ăn thôi.

Chẳng kịp xoa chỗ đau

vừa bị cốc, tôi kéo tay chàng lôi đi:

- Chàng mời em nhé!

- Nàng thật là, sao

phải vội thế…

Chàng đưa tôi đi dạo

phố, vì mặt thường phục nên tôi chẳng ngại ngùng nắm tay chàng

trước bàn dân thiên hạ. Lúc đầu, chàng có vẻ không được tự nhiên cho lắm, nhưng

tôi kiên trì nắm tay chàng vài lần, dần dà, chàng đành chiều theo ý tôi. Chúng

tôi thưởng thức món bánh bao nướng, vốn là đặc sản của vùng này. Không phải

loại bánh bao thông thường, mà nhân thịt dê được bọc bằng một lớp bột mì

mỏng, sau đó đặt vào trong lò nướng bánh. Khi vỏ bánh vàng rượm mới nhấc ra, ăn

ngay lúc nóng, vỏ giòn, thịt mềm, thơm mà không ngấy. Tôi vừa nhảy tưng tưng vì

nóng vừa cắn, nhai, nuốt liên hồi, chàng đứng bên lắc đầu, thở dài.

Thịt xiên nướng cũng

là món ăn vặt không thể thiếu. Nhớ lại ngày trước, trong lễ hội Sumuzhe tôi

từng mường tượng ra cảnh hai chúng tôi ngồi xổm bên vệ đường ăn thịt nướng, tôi mỉm cười nham hiểm quay ra nhìn chàng. Nhận ra điềm họa, chàng lùi

lại, kéo tôi đi ăn mì vằn thắn, nhưng đã bị tôi giữ lại. Ha ha, cừu vào hang

cọp, muốn chạy thoát ư, đừng hòng!

Kết quả sau cùng là,

một bậc danh sư cao ngạo thoát tục, đỏ mặt ngồi cạnh tôi nơi góc phố, cắn thịt

dê nướng. Cũng may chàng chưa từng đến Giao Hà, lại mặc thường phục, nên không

bị ai nhận ra. Nếu không, chẳng đời nào chàng chịu để tôi hủy hoại hình ảnh của

mình như thế!

Đi đến một quán ăn

nhỏ, tôi ngồi xuống, gọi hai bát mì. Chàng chần chừ khi nhìn thấy những vết dầu

mỡ bám trên bàn ghế. Tôi biết từ nhỏ chàng đã quen với cuộc sống có kẻ hầu

người hạ, nên rất sạch sẽ, tôi mỉm cười nói với chàng: muốn ăn món mì chính

cống thì phải tìm đến những quán hàng nhỏ như thế này. Tôi đã quen với việc lê

la thưởng thức đồ ăn vặt trong các chuyến du lịch. Món mì của quán này

quả thật rất ngon, mềm, dai, vừa miệng. Sau khi quan sát điệu bộ hoan hỉ của

tôi, cuối cùng chàng cũng chịu động đũa và sau một hồi tận hưởng, chàng cũng

phải gật đầu đồng tình với quan điểm của tôi.

Hôm đó, chúng tôi đã lang thang mọi ngóc ngách trong thành Giao Hà, đến tận khi sẩm tối

mới ra về. Tôi đã quên sạch mục đích ban đầu là ra ngoài làm việc. Vì ăn nhiều

quá, tôi ôm bụng suốt trên đường về. Trước đây, tôi cứ cho rằng, đi chơi phố

phải đi cùng những người hài hước, ưa huyên náo như Pusyseda mới vui, nhưng hôm

nay, quan điểm đó đã đổ vỡ triệt để. Bởi vì trước đây, tôi chưa từng được cùng

người mình yêu đi dạo phố. Cho dù chàng không biết nói đùa, không hài hước, cho

dù trước lúc nắm tay tôi chàng phải đưa mắt quan sát xung quanh xem có ai nhìn

thấy không, cho dù chàng thích quản thúc tôi, không cho tôi ăn quá nhiều và chạy

đi lung tung, nhưng cảm giác hạnh phúc ngập tràn khi được đi bên chàng, Pusyseda không thể mang lại cho tôi.

Buổi tối, lúc đi ngủ,

chàng vẫn ngả tay cho tôi gối đầu như thường lệ, rồi khẽ thủ thỉ bên tai tôi:

- Ngải Tình, hôm nay

ta rất vui.

Tôi xoay người lại, ôm

chàng, lòng mãn nguyện dâng đầy:

- Cảm ơn chàng đã làm

tất cả vì em.

- Nếu nàng muốn, sau

này ta sẽ thường xuyên đưa nàng đi chơi. - Chàng là nhà sư, không thể làm vậy.

Tôi vùi đầu vào ngực

chàng, áp má lên má chàng:

- Em không mong cầu gì

nhiều, chỉ cần mỗi năm, chàng chịu đưa em đi chơi một ngày, cùng em tận hưởng

cuộc sống của người thường như hôm là em mãn nguyện lắm rồi!

Một nụ hôn êm ái đặt

lên môi tôi, giọng nói ấm áp thoảng bên tai tôi:

- Ừ.

Những ngày sau đó,

Rajiva ở miết trong chùa giảng kinh cho đến một ngày trước khi chúng tôi lên

đường. Còn tôi, giống như ở các điểm dừng chân khác, ra ngoài khảo sát, ghi

chép. Chỉ có điều, mỗi khi đi qua cửa hàng bán bánh bao nướng, góc phố nơi

chúng tôi từng đứng ăn thịt, và quầy hàng mì vằn thắn đó, tôi lại tủm tỉm cười.

Lúc rời khỏi Giao Hà, tôi cứ ngoái đầu nhìn lại thành phố trên gò đất bên sống

ấy đang dần khuất xa khỏi tầm nhìn. Thành phố này khiến tôi lưu luyến hơn bất

cứ nơi nào tôi từng ở lại, bởi vì kỉ niệm đẹp của buổi rong chơi ấy.

Dọc đường từ Giao Hà

đến Shanshan (Thiện Thiện), trên những cánh đồng mênh mông, bà con dựng lên rất

nhiều giàn nho, có lúc chúng tôi đã đi dưới những giàn nho ấy. Nhà nào nhà nấy

đều bắc những giàn phơi nho. Đi được nửa đường thì Hỏa Diệm Sơn xuất hiện trước

mắt chúng tôi. Nền trời xanh ngăn ngắt, mây trắng bồng bềnh trôi, dưới đất lại

là một màu đỏ quạch chì chiết. Mặc cho bạn có nhắm mắt lại để tránh nó, sắc đỏ

gai góc ấy vẫn xuyên qua màng mắt bạn. Mồ hôi đầm đìa, chúng tôi ra khỏi bồn

địa Turpan và đến Shanshan.

Shanshan là một quốc

gia nhỏ, không thể sánh với Giao Hà. Chúng tôi chỉ dừng chân tại đây ba ngày

rồi tiếp tục lên đường, để đến tiểu quốc cuối cùng của Tây vực – Yiwu. Tên của

quốc gia này rất nổi tiếng vào thời hiện đại, bởi vì nhờ có giống dưa vàng

tuyệt hảo, cả thế giới đều biết đến vùng đất này với cái tên: Hami. Nhưng vào

thời điểm tôi có mặt ở đây, Yiwu không hề có chút tiếng tăm nào, chỉ là một

quốc gia nhỏ bé, nhưng lại ở vào vị trí hiểm yếu trên con đường tơ lụa.

Sở dĩ tiểu quốc này có

thể tồn tại độc lập giữa sự kìm kẹp của các nước lớn đều nhờ ở sự may mắn và

chính sách ngoại giao mềm mỏng. Bởi vậy, tuy Yiwu không tham dự vào cuộc Tây

chinh của Lữ Quang, nhưng vẫn đón tiếp đoàn chúng tôi rất chu đáo, nồng hậu. Chúng

tôi nghỉ ngơi ở Yiwu nhiều ngày hơn ở Shanshan, vì đoàn quân cần chuẩn bị đầy

đủ lượng nước và lương thực cần thiết để đối mặt với cơn ác mộng mang tên tám

trăm dặm sa mạc Hạ Diên Tích[1]. Vào thời nhà Đường, Sa mạc Hạ Diên Tích

gọi là Sa Hà, vốn là một vùng đất mênh mông, hoang vu, không có bóng dáng của

sự sống. Muốn vượt qua sa mạc này, người xưa chỉ có thể men theo những bộ hài

cốt của người đi trước và xương hóa thạch của động vật. Trên đường có thể

thường xuyên bắt gặp những bộ xương khô của cổ nhân. Nghe nói, có người cứ đi

mãi, đi mãi, rồi ngã xuống và bỏ mạng. Qua nhiều năm tháng, thi thể người

chết bị phong hóa, biến thành xác khô và vẫn giữ nguyên hình hài lúc chết.

[1]Còn gọi là Sa Hà: tức dòng sông cát, hay sa mạc Gobi

Trên đường Tây chinh

qua đây, trải qua hơn ba trăm dặm không một giọt nước, tướng sĩ của Lữ Quang ai

nấy đều mặt mày biến sắc. Nhưng Lữ Quang đã rất may mắn vì đoàn quân của ông ta

đã gặp được trận mưa hàng trăm năm mới có một lần trên sa mạc này. Tuy nhiên,

Lữ Quang hiểu rằng, ông ta không thể lần nào cũng may mắn như thế, nên đã đã

đích thân kiểm tra công tác chuẩn bị nước uống và lương thực, hẳn là trải

nghiệm của lần vượt sa mạc thập tử nhất sinh trước đó đã khiến ông ta lo sợ và

cảnh giác.

Cuối tháng sáu, chúng

tôi bắt đầu tiến vào sa mạc tử thần Hạ Diên Tích dài tám trăm dặm. Từ Yiwu đến

Ngọc Môn Quan, sẽ không có bất cứ điểm tiếp tế nào. Sư phụ Huyền Trang đã vô

cùng vất vả khi phải vượt qua sa mạc này chỉ với một mình một ngựa. Ngài lại lỡ

tay làm đổ túi nước, nên suốt bốn ngày năm đêm ngài phải chịu khát, chút nữa đã

bỏ mạng. Chúng tôi may mắn hơn ngày rất nhiều, vì chúng tôi có người dẫn đường, lại được tiếp tế lương thực. Nhưng tiến vào sa mạc Hạ Diên Tích trong

thời tiết oi bức, nắng như đổ lửa thế này vẫn hết sức gian khổ. Nhiệt độ buổi

trưa có thể lên đến hơn 45oC, vô cùng khô hạn, mỗi người chỉ được chia một

lượng nước rất hạn chế, không ai dám uống nhiều, vậy nên miệng môi ai nấy đều

nhanh chóng bị nứt nẻ..

Trong “Đại Đường Tây

vực ký”, sư phụ Huyền Trang mô tả như sau: “Ban đêm, yêu ma đốt lửa, những đốm

sáng lập lòe ma mị, ban ngày gió cát mịt mù, vần vũ như mưa bão”. Những miêu tả

sống động ấy, nếu không đích thân đặt chân vào sa mạc này, sẽ chẳng thể có được

sự trải nghiệm khắc cốt ghi tâm. Ban ngày, không một gợn gió, nhưng có thể ngay

lập tức tối tăm mặt mày vì gió cát, bụi đá, với những thanh âm rú rít ghê rợn

như tiếng ma quỷ. Bụi cát bị gió lốc cuốn tung, bay mù mịt khắp trời hệt như

mưa rào, dù quấn khăn bịt mặt rất dày, vẫn có thể bị cát xâm nhập vào tận cuống

họng.

Ban đêm, bầu trời ngàn

sao lấp lánh, mặt đất chập chờn những bóng ma trơi. Đây là lần đầu tiên tôi

trông thấy “ma trơi”, hình ảnh đó phát ra từ hài cốt của con người và động vật

đã chết trong điều kiện tự nhiên khắc nhiệt này từ hàng ngàn năm qua. Ở thế kỷ

XXI, sa mạc Hạ Diên Tích không còn đáng sợ như vậy nữa, đường sắt xuyên qua sa

mạc, trước mặt hành khách sẽ chỉ là một khoảng không hoang vu, tẻ nhạt mà thôi.

Ai có thể ngờ rằng, một nghìn năm trước, nơi đây từng được xem là vùng đất chết

kia chứ!

Sau nửa tháng trời,

khi phong hỏa đài của Ngọc Môn Quan hiện ra trước mắt, ai nấy đều reo hò mừng

rỡ, cuối cùng chúng tôi đã vượt qua tám trăm dặm sa mạc Hạ Diên Tích. Nhưng tôi

biết, con đường phía trước không hề thuận lợi như mọi người nghĩ. Một thứ khác

đáng sợ hơn cả vùng đất chết đang chờ đợi chúng tôi.

Chiến tranh sắp xảy

ra…

Chương 1: Diễn biến mới

Cài đặt đọc truyện

Nhỏ
Vừa
Lớn
Rất lớn
Be Vietnam Pro
Arial
Times New Roman
Georgia
Sáng
Sepia
Tối

Ủng hộ tác giả

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

10.000đ
100 xu
20.000đ
200 xu
50.000đ
500 xu
100.000đ
1.000 xu
200.000đ
2.000 xu
500.000đ
5.000 xu

Hoặc nhập số tiền tùy chọn:

Báo lỗi truyện

Vui lòng chọn loại lỗi:

Chia sẻ truyện

Facebook
Twitter
Telegram
Email

Công cụ đọc truyện

Cài đặt
Yêu thích
Chia sẻ
Ủng hộ
Báo lỗi
Toàn màn hình
Chương 62
AI đọc truyện
0:00
0:00
0.5x
0.75x
1x
1.25x
1.5x
2x
Đang Tải...