Nhỏ
Vừa
Lớn
Rất lớn
Be Vietnam Pro
Arial
Times New Roman
Georgia

Đức Phật Và Nàng

Chương 7

Đăng:
Lượt đọc: 0
Đề cử: 0
Bình luận: 0

không phải tham gia những buổi thuyết giảng nữa, nên tôi không cần dậy sớm. Khi

đã no giấc, tôi tự động mở mắt, ra khỏi giường, rửa mặt chải đầu, ăn sáng rồi

ra phố. Tôi không thong dong đi dạo đâu nhé, tôi đi khảo sát thực tế đó. Thành

phố này đã trải hai nghìn năm tuổi, tuy diện tích không lớn, không tráng lệ,

dân số thưa thớt và đời sống còn khá lạc hậu, nhưng dù sao cũng là thành phố cổ

đại đầu tiên tôi đặt chân đến. Cứ coi như hôm nay là đợt tập dượt công tác thực

địa đầu tiên của tôi đi!

Tôi

khoác lên vai chiếc ba lô đã nhét đủ các thứ: sổ ghi chép, thước dây, bút viết,

xẻng nhỏ... Tôi bắt đầu xắn tay đo đạc tường thành, kiểm tra chiều dày lớp đất,

xem xét vị trí cổng thành, vẽ lại toàn bộ mặt cắt ngang, mặt cắt dọc của tòa

thành. Đang bận bịu với công việc, bỗng một nhóm người đột ngột xuất hiện ngay

sau lưng, lăm lăm chĩa mũi giáo về phía tôi. Tôi vội vàng đưa hai tay lên cao,

ra hiệu đầu hàng, nộp vũ khí và xin tha mạng. Chiếc thước dây lăn tròn trên

đất, kéo lê thành một vệt dài.

Tôi bị

tống vào nhà lao với tội danh gian tế của người Hán. Tôi dở khóc dở cười, làm

gì có tên gián điệp nào đi lại ngang nhiên giữa phố như tôi chứ! Cố vắt óc lôi

ra bằng hết vốn từ vựng Tochari và ra sức giải thích với họ rằng tôi là người

quen của đại pháp sư Kumalajiba. Rằng hôm qua tôi đã được diện kiến nhà vua và

hoàng hậu của họ. Rằng tôi còn được mời tham dự yến tiệc trong cung nữa. Tôi nài

nỉ họ đến tìm Kumalajiba. Nhưng sau nhiều giờ vẫn không thấy có ai đến bảo

lãnh, tôi đành tiếp tục công tác khoa học của mình trong nhà ngục.

Vì vậy,

khi Kumalajiba xuất hiện ở cửa nhà lao với vẻ mặt lo lắng tột độ, thì trước mắt

cậu ta là một cô gái vẫn đang say sưa tác nghiệp, mải mê đo đo đạc đạc, vẽ vẽ

xóa xóa trong buồng giam.

Trời đã

nhá nhem tối khi tôi cùng Kumalajiba bước ra khỏi nhà ngục. Chắc hẳn cậu vừa

kết thúc giờ tụng kinh buổi chiều đã phải vội vã đến nơi đây đón tôi về. Nghĩ

vậy, tôi thấy hơi áy náy. Cậu ta nói với đám cai ngục rằng tôi là giáo viên

tiếng Hán của cậu, thế là những người đó ngay lập tức thay đổi thái độ, tỏ ra

cung kính đối với tôi, khiến tôi được một phen cáo mượn oai hùm, phổng cả mũi.

Đúng

như dự đoán, buổi tối lên lớp, Kumalajiba đã hỏi về những việc tôi đã làm? Có

sự chuẩn bị từ trước nên tôi trả lời rất trôi chảy: Còn nhớ tôi từng nói về lý

tưởng của mình không? Tôi muốn viết một cuốn sách lịch sử lưu truyền hậu thế.

Và, để người đời sau có thể hiểu được quá khứ huy hoàng của Tây Vực, tôi phải

thu thập mọi tư liệu liên quan. Sau một hồi lắng nghe tôi thao thao bất tuyệt,

Kumalajiba hứa rằng cậu sẽ giải thích với quốc vương, nhưng cũng không quên dặn

dò tôi phải thận trọng hơn.

Mấy

ngày sau đó tôi đành giam chân trong phòng, chỉnh sửa bản vẽ và ra sức học

tiếng Tochari. Nhưng đến ngày thứ năm thì tôi không chịu được nữa. Lần đi thực

tiễn này, tôi đã rút ra kinh nghiệm và hành động thận trọng hơn. Tôi quan sát

mọi thứ thật tỉ mỉ sau đó mới trở về phòng và vẽ lại. Không thể không làm vậy,

trừ phi tôi muốn vẽ tranh trong ngục một lần nữa.

Mười

ngày có lẻ cứ thế trôi qua, những tập giấy đầy hình vẽ của tôi ngày một dày

lên. Một buổi tối nọ, tôi bỗng nhận thấy Kumalajiba không tập trung vào bài học

như mọi ngày, hình như cậu ta đang mải suy nghĩ điều gì đó. Tôi hỏi thì được

biết ngày mai có người thách đấu Kumalajiba luận chiến và điều đó khiến cậu rất

lo lắng. Tôi hỏi hai người sẽ tranh luận về nội dung gì, cậu nói ngày mai mới

công bố chủ đề. Tôi hỏi tiếp cậu tranh luận với ai, cậu ta bảo đó là một đại sư

luận kinh rất nổi tiếng, khắp vùng Tây Vực không ai là đối thủ. Ông cho rằng,

trên đời này không ai thắng nổi mình, nên đã tuyên bố hùng hồn rằng, nếu có

người thắng ông, ông sẽ lấy đầu mình xuống để tạ tội.

- Cô có

muốn đến xem không?

Cậu ta

hơi ngập ngừng, có lẽ vì thái độ đáng phê phán của tôi tại buổi giảng kinh

trước đó.

Tôi gật

đầu lia lịa:

- Có

chứ, tôi nhất định sẽ đi!

Một

cuộc thi hấp dẫn với cái giá là sự trừng phạt đáng sợ như thế, với một đại sự

ngông cuồng như thế, làm sao tôi có thể bỏ lỡ được!

- Cậu

có biết chỗ nào đặt cược không? Tỉ lệ ăn thua bao nhiêu? 5- 5 hay 4- 6?

Kumalajiba

chau mày, tôi vội vàng im bặt.

Vì muốn

cậu ta tập trung tinh thần cho buổi quyết đấu ngày mai nên tôi đã kết thúc giờ

học sớm hơn thường lệ. Nhận thấy vẻ đăm chiêu ưu phiền của cậu ta trước lúc ra

về, tôi kêu cậu ta lại, rồi bắt chước động tác cổ vũ tinh thần thường thấy

trong các bộ phim kinh điển của Hàn Quốc, tôi giơ tay phải lên và hô:

- AZA,

AZA, FIGHTING!

Nhìn vẻ

mặt ngơ ngác của Kumalajiba, tôi phì cười, gào to:

- Đó là

phương ngôn trên một bán đảo ở phía đông bắc. Có nghĩa là: Pháp sư trẻ của

chúng ta nhất định sẽ chiến thắng!

Kumalajiba

cười rạng rỡ, dường như những ưu phiền khi nãy đã bị xua đi, cậu nhìn tôi gật

đầu quả quyết và cũng học theo tôi giơ tay phải lên. Động tác hơi gượng gạo,

nhưng tràn đầy tự tin, phong thái ung dung, đĩnh đạc thường thấy đã trở lại với

cậu. Đó là nụ cười đầu tiên của cậu trong buổi tối hôm nay, ánh sáng của sự tự

tin trong nụ cười ấy tỏa khắp căn phòng, phả vào không gian quanh tôi dư vị của

sự ấm áp.

Thật lạ

lùng là buổi sáng hôm sau tôi không ngủ nướng như mọi ngày mà từ tờ mờ sớm đã

chờ sẵn ở cổng.

Buổi

luận chiến sẽ diễn ra tại chính điện trong hoàng cung. Đây là lần thứ ba tôi

bước vào nơi này, hai lần trước, tất nhiên là đi dự tiệc cùng mẹ con ni cô có

xuất thân bí ẩn. Bởi vậy, cảm giác háo hức không còn nữa. Tranh đã vẽ xong, tên

gọi cũng đặt rồi. Cung điện này chẳng lớn lắm, kiến trúc và trang trí họa tiết đều

hết sức đơn giản.

Nhưng,

không gian của buổi luận chiến lại rất lớn. Chỉ có người tham gia tranh luận và

nhà vua, hoàng hậu được phép ngồi, những người còn lại đều phải đứng nghe. Vì

vậy, chỉ trong chốc lát, toàn bộ đại điện đã chật kín người.

Theo tôi

biết, luận chiến là cách thức chủ yếu để thu hút tín đồ của các giáo phái thời

kỳ đầu. Ở Ấn Độ, các buổi biện kinh diễn ra rất bi thảm, người thua thường sẽ

phải mai danh ẩn tích, vĩnh viễn biến mất. Có người còn tự cắt lưỡi, thậm chí

tự vẫn. Nhẹ hơn thì đóng cửa giáo phái, tôn người thắng làm thầy. Trái lại,

người chiến thắng chỉ dựa vào một lần biện kinh, tiếng tăm sẽ nổi như cồn, được

mọi người sùng kính, sẽ có đông đảo tín đồ đến bái sư, người đó sẽ được quốc

vương trọng vọng và ban thưởng hậu hĩnh, trở thành đại sư quyền lực. Trần Huyền

Trang cũng từng nhiều lần giành chiến thắng trong các buổi biện kinh tại Tây

Vực và Ấn Độ, danh tiếng lan xa khắp nơi. Từ đó, có thể thấy, cuộc tranh biện

này có ý nghĩa to lớn dường nào đối với một nhà sư trẻ tuổi như Kumalajiba. Chả

trách một người thường ngày trầm tĩnh như cậu vậy mà tối qua đã không khỏi lo

lắng và bối rối.

Nhân

vật chính đã xuất hiện. Bên này là pháp sư trẻ tuổi Kumalajiba, một thiếu niên

tài trí cao rộng, phong độ ngời ngời, phong thái đĩnh đạc, trên mình khoác áo

choàng màu nâu sòng giản dị. Đối thủ là một người đàn ông trung tuổi, đạo sĩ

không ra đạo sĩ, hòa thượng không phải hòa thượng, trên mình khoác áo nhung màu

xanh da trời. Không thể tin được, tuổi tác của hai người chênh lệch quá xa. Đối

phương có lẽ cũng nhận biết được điều này, nên ông ta hếch mũi vênh vang nhìn

cậu thiếu niên tuy dáng người cao ráo nhưng thân hình mảnh khảnh ở phía đối

diện.

Hai

người được trao đến tay một tấm thẻ nhỏ, họ đọc tấm thẻ vài giây rồi bắt đầu

trầm tư suy ngẫm. Sau một tuần hương, tiếng trống vang lên. Đôi bên bắt đầu đặt

câu hỏi dồn dập cho đối thủ, có vẻ như Kumalajiba đang chiếm ưu thế. Tuổi trẻ

có lợi thế là phản ứng rất nhanh nhạy. Tốc độ biện luận của cả hai đều khá

nhanh, người này vừa kết thúc một câu, người kia đã trực tiếp trả lời. Khán

thính giả bên dưới tưởng như đang nín thở lắng nghe, chốc chốc lại “ồ” lên hoặc

“à” lên một tiếng, với những trạng thái biểu cảm hết sức phong phú.

Tôi chú

ý đến khu vực quần chúng bởi vì tôi không hiểu một chữ nào. Khi họ bắt đầu luận

chiến tôi đã biết mình không thể hiểu được, vì họ sử dụng tiếng Phạn. Vậy là

tôi chỉ có thể vừa quan sát sắc mặt của đám đông, vừa lục tìm trong trí nhớ

những thông tin lịch sử liên quan đến các kỳ biện kinh.

Biện

kinh đã biến mất hoàn toàn tại các ngôi chùa ở Trung Nguyên, ở Nhật Bản, Hàn

Quốc và khu vực Đông Nam Á thời hiện đại. Phật giáo Ấn Độ vốn đã suy yếu từ

lâu, hiện chỉ có Phật giáo Tây Tạng vẫn bảo lưu và duy trì truyền thống này.

Tôi đã được chứng kiến những buổi biện kinh tại ngôi đền Sera Monastery và đền

Drepung Monastery ở Lahsa. Hoạt động này thường được diễn ra ngoài trời vào

khoảng ba đến bốn giờ chiều. Lạt Ma của các đền chùa khác cũng cử người đến

tham dự, sau khi buổi biện kinh kết thúc, sẽ có người nghi chép lại kết quả

biện luận[7].

Khác

với những cuộc thi hùng biện, tranh biện mà chúng ta từng biết, biện kinh là

một hoạt động tập thể. Mỗi buổi biện kinh có thể có đến vài trăm Lạt Ma tham

gia, họ chia thành những nhóm nhỏ từ hai đến bốn người, trong đó, một người sẽ

biện luận chính, những người khác đóng vai trò hỗ trợ. Mỗi khi đưa ra câu hỏi

cho đối phương, người biện kinh sẽ thực hiện những động tác hết sức khoa

trương, như: vỗ tay thật mạnh, sau đó thi triển thế thủ giống hệt Lý Tiểu Long

lúc đấu võ, tay tung vạt áo, lắc tràng hạt, chân giậm mạnh, điệu bộ dữ dằn. Bên

phản biện ngồi xếp bằng trên đất, tay giơ lên phản ứng dữ dội. Toàn bộ khu vực

diễn ra hoạt động biện kinh vang động tiếng vỗ tay, tiếng áo cà sa của Lạt Ma

tung bay loạt soạt và tiếng người huyên náo. Những người ngoại đạo, không hiểu

tiếng Tạng như tôi, chỉ biết quay qua quay lại quan sát biểu cảm của nét mặt và

những động tác tay chân phong phú của những người tham gia biện kinh, thực chất

không hiểu họ nói gì.

Trước

mắt tôi lúc này chỉ có hai người, tuy không hoa chân múa tay, tạo các thế võ,

nhưng biểu cảm trên gương mặt họ vẫn hết sức phong phú. Có thể dễ dàng nhận

thấy, pháp sư trẻ tuổi của chúng ta càng vào cuộc càng say sưa, dáng người rướn

cao, áp đảo đối phương, giọng nói càng ngày càng hào sảng, vang dội. Đối phương

thì trái lại, càng lúc càng mặt ủ mày chau, vẻ hung hăng mất dần, giọng nói

cũng nhỏ dần, sau cùng thì gương mặt biến sắc, thần trí hỗn loạn, mồ hôi đầm

đìa trên trán, ngã bổ nhào về phía trước, quỳ gối xin thua.

Đám

đông hoan hô dậy sóng. Quốc vương và hoàng hậu cũng không nén nổi xúc động, lập

tức đứng lên kính cẩn hành lễ chúc mừng Kumalajiba. Sau một tiếng vỗ tay của

nhà vua, không biết bao nhiêu hòm to hòm nhỏ được khiêng vào, hẳn nhiên đó là

phần thưởng dành cho người chiến thắng. Trời ơi, tôi ngưỡng mộ pháp sư trẻ tuổi

này quá, mới mười ba tuổi mà cậu ta đã đánh bại một vị tiền bối hơn ba mươi

tuổi, không biết sau này trưởng thành hơn cậu ta sẽ còn tài giỏi đến mức nào

nữa?

Sau khi

kết thúc buổi luận chiến, Kumalajiba không tiếp tục giảng kinh, cậu được hộ

tống ra ngoài cung giữa sự vây bọc của đám đông người hâm mộ. Một chú voi lực

lưỡng được trang trí rất bắt mắt và đặt trên lưng một chiếc ghế sang trọng đã

chờ sẵn bên ngoài. Kumalajiba trèo lên lưng voi, quốc vương đi trước dẫn đường,

đoàn người bắt đầu diễu hành. Quốc vương chính thức công bố thắng lợi của đại

sư Kumalajiba cho toàn thể dân chúng trong thành được biết. Hoa tươi từ khắp

mọi nơi được bà con tung lên người pháp sư trẻ, kèm theo những tiếng hoan hô

vang dội, không ngớt. Đoàn diễu hành đi dọc theo các con phố chính, và cả những

ngõ nhỏ suốt một buổi chiều. Ngày hôm đó, Kumalajiba đã được tôn vinh, ca ngợi

hết mức, có lẽ cậu còn được hâm mộ hơn cả các minh tinh màn bạc thế kỷ XXI.

Khuôn mặt an nhiên, trầm lặng thường ngày hôm nay đã sáng lên bởi nụ cười mãn

nguyện nhưng khá dè dặt nơi khóe môi, cho đến tận khi cậu bước chân vào phòng

tôi vào buổi tối.

Chờ cậu

ta yên vị, tôi lập tức đặt câu hỏi:

- Cậu

và người đó đã tranh luận chủ đề gì vậy?

- Có và

không.

Tức là

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ư?

- Ông

ta luận về “có” còn cậu luận về “không”?

Cậu ta

gật đầu, tôi lại hỏi tiếp:

- Cậu

đã thắng như thế nào?

- Rất

khó diễn đạt. Tôi không khẳng định là có hay không, mà đặt ra giả thuyết “nếu

như có”. Đã là “nếu như có” thì sẽ không thể là “không” được. Có có không

không, không phải có cũng không phải không.

Tôi

nghe mà ù cả tai, những là có có không không, không không có có.

- Ông

ấy có đồng ý với giả thuyết của cậu không?

- Có.

Sau đó tôi lại hỏi, bóng trăng dưới nước là có hay không? Ông ấy không thể ngoa

ngôn trả lời là có. Như thế, cái chính mắt ta nhìn thấy mà vẫn là không tồn

tại, vậy mọi thứ trên đời này phải chăng cũng chỉ là ảo ảnh, giống như bóng

trăng dưới nước. “Nếu như có” tức là không, là có mà cũng không là không, vậy

thì tất cả chỉ là cõi tịch mịch.

- Vậy

có cái gì là “có” không?

Tên

ranh mãnh, lập luận lắt léo như thế làm gì vị sư già kia chẳng thua. Nếu là ở

thời hiện đại thì như thế sẽ được gọi là “phép lập luận chủ quan vô căn cứ”.

- Mọi

thứ trên đời đều không tồn tại, chỉ có Nirvana là vĩnh hằng.

-

Nirvana là gì vậy?

- Tức

là thông qua con đường tu hành, có thể dứt bỏ triệt để mọi phiền não, tích thêm

nhiều công đức, thoát ly khỏi vòng sinh tử luân hồi và bước vào cõi bất sinh

bất diệt.

Cậu ta

đưa đôi mắt sáng long lanh về phía tôi:

- Ngải

Tình, chắc chắn cô biết phải giải nghĩa từ này như thế nào bằng tiếng Hán, đúng

không?

- Ngôn

ngữ đạo Phật có các từ: diệt độ, tịch diệt, giải thoát, viên tịch, Niết Bàn,

tất cả đều có nghĩa là chết.

Cậu ta

vỗ tay tán thưởng:

- Hay

quá! Diệt độ tức là “diệt” trừ mọi phiền não và thoát ra khỏi sự sống chết.

Tịch diệt tức là giữ cho tâm tĩnh và rũ bỏ mọi ưu phiền.

Tôi thở

dài. Tôi đã phải xin lỗi các vị đại sư dịch giả không biết bao nhiêu lần về cái

tội đánh cắp bản quyền này rồi! Mà cái tên ranh này, trình độ Hán ngữ của hắn

càng ngày càng tiến bộ, nào là không nào là có, mà học thuyết duy tâm của hắn

khiến tôi giờ đây cũng trở nên tiêu cực đi vài phần rồi!

- Vị

đại sư đó từng tuyên bố rằng, nếu có người thắng ông ấy, ông ấy sẵn sàng lấy

đầu mình xuống để tạ tội.

Một nụ

cười nơi khóe miệng, hình như cậu ta đang rất đắc ý:

- Tôi

cần đầu của ông ấy để làm gì kia chứ!

- Đúng

thế, vì vậy cậu đã buộc ông ta tôn cậu làm thầy, theo cậu học Phật pháp.

Tôi nhớ

lại màn thu nhận đệ tử sáng nay. Đúng là tâm tính của những người trẻ tuổi, đã

bước vào cửa thiền, sắc sắc không không rồi mà vẫn còn nguyên tính hiếu thắng.

Tôi thở

dài:

- Theo

cậu, ông ta có thật lòng quy phục không?

Rồi

chợt nhớ ra một chuyện, không chờ cậu ta trả lời câu hỏi kia, tôi thích thú đề

nghị:

- Nào,

chúng ta hãy thử thi tài. Nếu thua, tôi sẽ tôn cậu làm sư phụ.

Đằng

nào thì cậu ta cũng là thầy dạy tiếng Tochari của tôi rồi, có thua tôi cũng

không sợ thiệt.

- Thi

như thế nào? Biện luận nội dung gì?

Cậu ta

có vẻ bị bất ngờ.

- Chúng

ta sẽ biện luận thế nào là thua, thế nào là thắng.

Không

chờ cậu ta đáp lời, tôi vội vàng trổ tài trước:

- Nếu

tôi và cậu luận chiến và cậu thắng tôi, có chắc là cậu đúng còn tôi thì sai

không? Nếu tôi thắng, có chắc là tôi đúng còn cậu sai không? Có chắc người này

đúng còn người kia sai không? Hay cả hai đều sai hoặc đều đúng? Hai chúng ta

không thể định đoạt ai đúng ai sai, vậy thì ai sẽ đứng ra quyết định? Nếu chúng

ta nhờ người thứ ba đứng ra phân xử, người đó cũng không thể đưa ra quyết định

chính xác. Bởi vì, nếu như cậu mời một người có đồng quan điểm với cậu đứng ra

phân xử, người đó có chung lập trường với cậu thì làm sao phán xét công bằng

được? Nếu người đó đồng quan điểm với tôi, thì cũng tương tự, cũng chẳng thể

đưa ra phán xét công bằng. Vì vậy, cả tôi, cả cậu và người thứ ba kia đều không

thể quyết định ai đúng ai sai. Nếu tôi cứ kiên trì quan điểm của mình và không

chịu thua, vậy thì ai đúng ai sai sẽ là câu hỏi vĩnh viễn không có lời giải.

Tôi ba

hoa chích chòe một hồi bằng tốc độ biện luận của Đường Tăng, sau đó mỉm cười

liếc nhìn Kumalajiba.

Cậu ta

nhìn tôi không chớp mắt, miệng khẽ mở, sững sờ mất chừng nửa phút. Lắc lắc đầu

định nói gì đó lại thôi. Sau đó chắp hai tay lại, cung kính:

- Tôi

thua rồi.

Tôi bật

cười nhìn điệu bộ thua trong thỏa mãn, thua tâm phục khẩu phục của cậu ta.

- Cậu

còn nhớ câu chuyện Trương Châu nằm mơ hóa hồ điệp mà tôi từng kể không?

Cậu ta

gật đầu.

- Rốt

cuộc là mơ hay thực, là Trương Châu hay hồ điệp, chúng ta chẳng cần nhọc lòng

truy xét. Bởi vì, tiêu chuẩn nhận thức của con người chỉ là tương đối. Người ta

chỉ có thể nhận biết một phần sự thật trong một khoảng thời gian hữu hạn, không

ai dám khẳng định mình nắm vững chân lý tuyệt đối. Bởi vậy, các cuộc luận chiến

của các giáo phái đều là đem cái phi lý của mình ra để phủ nhận cái có lý của

đối phương. Làm thế sẽ không thể phân biệt thật giả, đúng sai.

Cậu ta

nhìn tôi bằng ánh mắt khâm phục. Vậy là tôi đã vớt vát được chút thể diện của

người làm thầy trước mặt chàng trai trí tuệ siêu phàm này rồi!

Ngày

hôm sau, cậu ta đến gặp và nói vài câu với người đàn ông trung tuổi đang vô

cùng tủi hổ và sợ hãi kia bằng thái độ cung kính đáng ngạc nhiên. Người đàn ông

kinh ngạc nhìn Kumalajiba. Cậu phải nhắc lại một lần nữa, lúc ấy, người đàn ông

mới tin vào những gì mình vừa nghe và liền sau đó là những lời cảm ơn rối rít.

Rồi ông ta vội vã đi về phòng mình. Tôi biết ông ta muốn nhanh chóng thu dọn

hành lý rời khỏi nơi này.

Tôi đưa

mắt nhìn Kumalajiba đúng lúc cậu ta quay đầu về phía tôi, đôi mắt trong như

nước hồ thu. Tôi ngước lên nhìn trời, hôm nay là một ngày oi ả, sao mới sáng

sớm mà ánh nắng đã làm tôi choáng váng thế này!

Chương 1: Diễn biến mới

Cài đặt đọc truyện

Nhỏ
Vừa
Lớn
Rất lớn
Be Vietnam Pro
Arial
Times New Roman
Georgia
Sáng
Sepia
Tối

Ủng hộ tác giả

Chọn số tiền bạn muốn ủng hộ:

10.000đ
100 xu
20.000đ
200 xu
50.000đ
500 xu
100.000đ
1.000 xu
200.000đ
2.000 xu
500.000đ
5.000 xu

Hoặc nhập số tiền tùy chọn:

Báo lỗi truyện

Vui lòng chọn loại lỗi:

Chia sẻ truyện

Facebook
Twitter
Telegram
Email

Công cụ đọc truyện

Cài đặt
Yêu thích
Chia sẻ
Ủng hộ
Báo lỗi
Toàn màn hình
Chương 7
AI đọc truyện
0:00
0:00
0.5x
0.75x
1x
1.25x
1.5x
2x
Đang Tải...